Đường tàu giữa đôi bờ hư thực

02:04, 03/04/2019

(LĐ online) - Mỗi ngày, con tàu già nua vẫn lầm lũi đi về. Sân ga vẫn còn đây, đường ray còn đó và trên toa vẫn xôn xao tiếng nói cười vậy mà chẳng hiểu vì sao tôi cứ ngỡ đó chỉ là ảo ảnh và từng hồi còi rúc lên giục giã kia cũng chỉ là thứ âm thanh mơ hồ vọng về từ quá khứ. Trong cuộc đời này, có những thứ dù hôm nay vẫn còn đấy nhưng nó chẳng phải là nó nữa. Như người tình cũ, như con chim bị tách khỏi rừng, như con tàu mắc cạn nằm nhớ sóng khơi xa… Con tàu, nhà ga và từng chuyến đi-về ngắn ngủi hôm nay đâu còn là nơi diễn ra những cuộc hội ngộ hội ngộ và chia ly, làm sao đến được những bến bờ xa lắc. Có chăng, nó chỉ là tàn dư còn sót lại của một ký ức huy hoàng, là phương tiện để thỏa mãn chút đam mê, khám phá, tìm về quá khứ của lữ khách mà thôi.

(LĐ online) - Mỗi ngày, con tàu già nua vẫn lầm lũi đi về. Sân ga vẫn còn đây, đường ray còn đó và trên toa vẫn xôn xao tiếng nói cười vậy mà chẳng hiểu vì sao tôi cứ ngỡ đó chỉ là ảo ảnh và từng hồi còi rúc lên giục giã kia cũng chỉ là thứ âm thanh mơ hồ vọng về từ quá khứ.
 
 
Trong cuộc đời này, có những thứ dù hôm nay vẫn còn đấy nhưng nó chẳng phải là nó nữa. Như người tình cũ, như con chim bị tách khỏi rừng, như con tàu mắc cạn nằm nhớ sóng khơi xa… Con tàu, nhà ga và từng chuyến đi - về ngắn ngủi hôm nay đâu còn là nơi diễn ra những cuộc hội ngộ và chia ly, làm sao đến được những bến bờ xa lắc. Có chăng, nó chỉ là tàn dư còn sót lại của một ký ức huy hoàng, là phương tiện để thỏa mãn chút đam mê, khám phá, tìm về quá khứ của lữ khách mà thôi.
 
Tuy nhiên, sự đứt đoạn, mất mát, hoang phế nào cũng thường vẽ nên nhiều hình dung, mộng tưởng. Cũng như tôi, mỗi khi đứng giữa sân ga, nơi có chiếc đầu máy hơi nước hoen gỉ, câm lặng hay những lần đứng trước đường hầm rêu phong, quạnh vắng mạn Xuân Thọ, Xuân Trường, D'ran… tôi lại hình dung ra một không gian cổ tích với tuyến đường sắt răng cưa như dải lụa vắt ngang đồng bằng và cao nguyên. Khởi đầu từ bờ biển Nam Trung Bộ, tuyến đường xuyên qua thảo nguyên khô cằn toàn xương rồng, cát trắng, nơi mà dấu vết của nền văn minh Chăm-Pa vẫn còn lấp lánh trên tháp Chàm ngàn năm tuổi và công trình đại thủy nông Nha Trinh do vua Po Klong Garai chỉ đạo xây dựng cách đây hơn 8 thế kỷ. Từ thung lũng Ninh Sơn, nó ngập ngừng dừng lại đôi chút như muốn lấy đà rồi vượt lên những đỉnh núi cao chất ngất, băng qua sông Đa Nhim, tiếp tục chinh phục đèo D'ran sau đó thong thả men theo những triền đồi bốn mùa thông reo, sương phủ. Trên cung đường ấy, vào những ngày rất xa có những đoàn tàu xuôi ngược, phả khói mơ màng vào không gian, chở theo người và hàng hóa đi-về khắp nẻo. Đứng trước khung cảnh lẫm liệt, tôi làm sao quên những phu đường gầy gò, rách rưới năm xưa mà giờ đây, dấu tích của họ vẫn còn đó qua những nấm mồ lạnh lẽo nằm rải rác hai bên đường. Công trình được kiến tạo đâu chỉ bằng ý tưởng táo bạo và lãng mạn, nó còn phải đánh đổi từ bao mồ hôi và xương máu. “Kể từ níp-đớp-vanh-đơ (*)/ Quan tây, thầy thuốc me-xừ Rô-ca/Kể từ làm sở Sông Pha/ Làm hai cây số đục qua miệng hầm/ Bạc vàng không biết mấy trăm/ Nhơn dân hao phí ăn nằm gió sương/ Kẻ sụp đất người nghiến xương/ Kẻ bị hột nổ tan xương nát đầu/ Nói ra kẻ thảm người sầu/ Bất đắc kì tử thác sâu linh hồn/ Người nào không giấy bổn thôn/Không hình căn cước bắt dồn lên quan/ Làm sao cho khỏi mang mền/ Làm ba bốn bữa trốn lên hòn Bồ/ Cây khô thì lá cũng khô/ Phận nghèo đi tới nơi mô cũng nghèo”
 
Vào một ngày đã xa, cũng trên sân ga này có một chàng nhạc sĩ nghèo chờ đón người yêu. Ở đó, anh đã trải qua biết bao cung bậc cảm xúc từ háo hức, khắc khoải, thất vọng, sướng vui, hạnh phúc. “Em lên ngày mai, đường gió trăng cài/ Mong em từng giây/ Rộn ràng như ngây/ Ô hay mùa Đông mà Xuân đã lâng lâng… Nhưng trên thềm ga, chờ đến trăng tà/ Em ơi vì đâu, hẹn rồi thờ ơ? Xuân sang rồi sao mà hoa nở không tươi? Xuân qua rồi sao mà tim đã đơn côi?...” Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua mà ca từ, giai điệu ấy vẫn luôn đồng điệu, tươi mới trong tâm hồn những kẻ đang yêu và nhân vật chính trong bài hát đã trở thành một trong những biểu tượng nghệ sĩ của phố núi.
 
Khu tập thể hỏa xa do người Pháp xây dựng cách đây một thế kỷ tại đường Quang Trung, Phường 9, TP Đà Lạt vẫn còn một người lái tàu duy nhất trên tuyến đường sắt Đà Lạt - Tháp Chàm từ thời Pháp thuộc. Đó là cụ Nguyễn Văn Viễn, sinh năm 1922 tại làng Quý Lý, xã Hải Ninh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, làm việc tại Sở hỏa xa Đà Lạt từ năm 1947. Với thâm niên gần nửa thế kỷ lái tàu cùng trí nhớ phi thường, cụ Viễn đã trở thành “pho sử sống” của tuyến đường sắt răng cưa Đà Lạt - Tháp Chàm. Giờ đây, dù đã vào cái tuổi “gần đất xa trời” nhưng người lái tàu năm xưa vẫn đau đáu niềm mong ước sẽ có một ngày những con tàu lại nối nhịp bờ vui giữa đồng bằng và cao nguyên.
 
Mà đâu chỉ cụ Viễn, mỗi lần đứng trước di sản của quá khứ huy hoàng ấy, làm sao không ước mơ tuyến đường sẽ sống lại cuộc đời năm xưa và “ảo ảnh” con tàu, tiếng còi sẽ trở thành hiện thực.
 
VŨ ĐÌNH ĐÔNG